Sông Hồng biến dạng trong cơn đói cát

Biểu tượng của cả nền văn minh đang biến dạng chưa từng có trước sự lộng hành của tội phạm.

“Sông Hồng” là tên một nền văn minh của người Việt. Họ đã tạo dựng những nhà nước đầu tiên, hoàn thiện kết cấu xã hội, bồi đắp nền văn hóa và hình thành tập quán lao động quanh dòng chảy đỏ phù sa này, trước khi mở rộng xuống phía Nam.

Suốt nhiều thế kỷ, những người Việt vùng châu thổ mang thói quen cầu xin sông Hồng điều họ cần. Khắp một dải đồng bằng, từ Bạch Hạc (Phú Thọ), Lảnh Giang (Hà Nam) cho đến Nhật Tân, Xuân Trạch (Hà Nội), trung tâm của các nghi thức tín ngưỡng là múc và rước nước sông Hồng. Dòng sông, nhân cách hóa qua các vị thủy thần, được đề nghị giúp đỡ phần lớn hoạt động sản xuất, thương mại, an ninh quốc gia.

Ở đền Tam Giang, ngã ba sông Bạch Hạc – cạnh nơi Vua Hùng dựng nước – bây giờ “xin nước thiêng” thành một nghề. Dân địa phương tổ chức hậu cần cho khách thập phương xin nước sông Hồng đem về nhà: dòng sông khi đó tài trợ cả các công việc cá nhân. Mọi việc lớn bé, người Việt đều chắp tay xin sông Hồng.

Nhưng đến thế kỷ 21, trong cơn khát của một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, không cần ai cấp phép, người ta cắm thẳng những ống hút vào cơ thể của sông Hồng.

Dưới lòng sông là cát – loại khoáng vật ngày một đắt giá. Súng nổ, máu rơi, tù tội không ngăn được cơn khát khủng khiếp của ngành xây dựng. Lợi nhuận khổng lồ tạo nên những nhóm tội phạm có tổ chức.

Cát tặc đang ngày đêm hút máu sông Hồng. (Ảnh: nguồn Internet)

Năm 2010, khi Hà Nội chuẩn bị cho đại lễ Nghìn năm Thăng Long, mực nước thấp nhất của sông Hồng, đo tại Trạm thủy văn Hà Nội chỉ còn 0,56 m. Đó là mức cạn kỷ lục trong vòng hai trăm năm.

Tại nơi mà một nghìn năm trước Lý Thái Tổ ca ngợi rằng “muôn vật tươi tốt phồn thịnh”, những sự kiện dị thường diễn ra: người dân bắt đầu thấy sợ dòng sông thiêng. Họ sợ thiếu nước tưới, họ sợ ruộng vườn biến mất dưới lòng sông; và nhiều người đêm nằm nhìn trần nhà không dám ngủ, sợ dòng sông sẽ liếm căn nhà đi như vụn bánh. Sông Hồng biến dạng chưa từng thấy cả về dòng chảy, mực nước lẫn tính cách.

“Vấn đề cốt lõi của sông Hồng hiện nay là đáy lòng dẫn bị hạ thấp, dẫn đến mực nước sông Hồng cũng bị hạ thấp rất nghiêm trọng” – PGS.TS Trần Đình Hòa, Phó Viện trưởng Viện Thủy công, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam khẳng định.

Quan sát hình dáng của sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội từ năm 1989 đến nay nhận ra những biến đổi rõ rệt. Dòng sông teo lại. Một nhánh sông lớn ở khu vực giữa Mê Linh và Đông Anh đã biến mất. Ở khu vực phía đông cầu Thăng Long, nơi sau này là cầu Nhật Tân, mực nước hạ tạo ra một bãi bồi khổng lồ.

Và những người dân nội thành sẽ rất dễ nhận ra sự biến đổi ở khu vực cầu Long Biên: trong thập kỷ 80 và 90, Bãi Giữa từng tách hẳn ra với trung tâm thành phố bởi một nhánh sông. Nay nhánh sông đó đã biến mất, chỉ còn một vùng ngập nước xâm xấp. Một bãi bồi mới gần đó cũng đang  hình thành.

Mực nước sông Hồng thấp tạo ra hàng loạt hệ lụy: xói lở ven bờ; thiếu nước sản xuất và sinh hoạt; các hồ chứa thủy điện phải xả nhiều nước hơn để bù đắp, ảnh hưởng đến an ninh năng lượng; xâm nhập mặn ven biển; ô nhiễm môi trường; giao thông đường thủy tê liệt;…

Theo Viện Khoa học Thủy lợi, đáy sông hạ thấp có hai nguyên nhân chính: các hồ chứa thượng nguồn giữ lại phù sa và việc khai thác cát quá mức. Nhưng nếu hồ chứa thượng nguồn là đối tượng có pháp nhân, có thể tranh biện, phản đối, kiến nghị – thì chân dung những con tàu hút cát dọc dòng sông lại là một điều bí ẩn. Vì nhiều lý do, chúng không được điểm mặt, chỉ tên.

Đội chống cát tặc của thôn Bắc Sơn, xã Hồng An, Hưng Hà, Thái Bình có hơn mười người, đều là các hộ trồng chuối ngoài bãi. Ông Bình, bí thư thôn là chỉ huy. Mỗi đêm, họ chia hai ca gác. Năm người một ca thay phiên nhau nhặt gạch ném để đuổi tàu.

Trong đêm đen, những “con tàu không số” lừ lừ tiến vào sát bãi. Từ thân tàu, ống hút cắm xuống lòng sông. Cát theo ống hút từ lòng sông lên nằm gọn trong lòng tàu.

Một loạt gạch từ vườn chuối rào rào bay ra. Không chạm đến tàu, gạch rơi ủm xuống sông. Người trên tàu nghe động, chỉ ngẩng lên nhìn rồi làm tiếp việc.

Những người đàn ông Bắc Sơn lượng sức, chỉ dám ném để xua đuổi đoàn tàu ra xa. Họ sợ làm “bọn cát tặc” bị thương thì gặp rắc rối với pháp luật. Gọi là “đội chống cát tặc” nhưng vũ khí duy nhất họ có, là mấy viên gạch vỡ và tiếng hô hoán, thậm chí không đủ hoàn thành vai trò của một “đội dọa cát tặc”.

Thôn Bắc Sơn, xã Hồng An, Hưng Hà, Thái Bình có hai bãi sông màu mỡ. Sông Hồng để lại phù sa cho làng này một bãi Âm Sa phía trong, một bãi Tân Bồi phía ngoài. Trên những bãi ấy, dân làng trồng dâu, trồng chuối. Bao nhiêu mùa lũ tràn về không ngập hết được bờ bãi.

Từ năm 2012, một công ty được tỉnh Thái Bình cấp phép khai mỏ. Mỏ cát trên sông tưởng giữ được bãi Tân Bồi cho làng, nhưng hóa ra là họa. Cát ở đây hạt mịn, là loại mà dân công trường rất ưa. Mấy năm sau, tàu bè đến ngày càng nhiều. Những “con tàu không số” cắm ống hút cả ngày lẫn đêm.

Năm 2012, bãi Tân Bồi bắt đầu biến mất. Mùa hè 2016, bãi Âm Sa cũng theo đất lở ầm xuống sông.

Người dân bắt đầu phản ứng. Họ lập nên đội chống cát tặc. Phục kích, ném đá không ăn thua. Có lần, đội chống cát tặc lên thị trấn tìm thợ ảnh có máy xịn để chụp lấy bằng chứng đưa ra công an. Mấy thợ ảnh đều lắc đầu, dù 5 triệu đồng bằng tiền công chụp hai đám cưới ở quê. Họ sợ bị trả thù.

Dân báo cáo lên xã, đưa đơn xuôi xuống huyện, đơn ngược về tỉnh. Công an về tuần tra, những chiếc tàu hút cát biến mất. Không thấy bóng áo xanh, chúng lại xuất hiện.

Năm 2019 này, đội chống cát tặc đã không còn hoạt động. Đi xuyên qua cánh đồng chuối, ra sát mép sông, ông Bình cầm một hòn gạch ném xuống. Chỗ viên gạch rơi từng là bãi Tân Bồi, giờ đã thành sông nước mênh mang. Những chiếc tàu chở cát vẫn xuôi ngược giữa dòng.

“Từ năm 2000 đến nay, bình quân mỗi năm đáy sông bị hạ thấp 8 cm”, PGS Phạm Đình, Viện khoa học Thủy lợi Việt Nam nói.

Lòng dẫn chính của sông đã bị xói sâu khoảng 2 mét, khiến mực nước hạ theo. Tỷ lệ phân lưu vào sông Đuống cũng thay đổi, do lòng sông Đuống đã bị hạ thấp nhiều hơn so với sông Hồng – cũng bởi hai chữ “hút cát”.

Trong vòng mười lăm năm, từ 1997 đến 2012, gần 244 triệu mét khối cát đã bị lấy đi khỏi lòng sông Hồng. Nhiều nhất từ ngã ba Việt Trì đến ngã ba tam tỉnh Hưng Yên – Hà Nam – Thái Bình. Có năm khối lượng cát bị lấy đi (theo nguồn thống kê được) riêng tại Hà Nội lớn gấp 3 lần lượng phù sa về tới Sơn Tây.

Kể từ khi Việt Nam mở cửa, chỉ có một lần tốc độ hút cát từ sông Hồng giảm xuống: đó là giai đoạn sau năm 2011, khi bất động sản Việt Nam đóng băng và nền kinh tế bớt cơn thèm cát. Nhưng cơn khát trở lại rất nhanh.

Cát bị lấy đi, cùng phù sa bị giữ lại các hồ chứa không đủ bù đắp làm đáy sông liên tục hạ thấp. Hai bên bờ sông bắt đầu sạt lở.

Lực lượng chức năng cũng đã vào cuộc nhưng chưa thể ngăn chặn tình trạng này. (Ảnh: nguồn Internet)

Căng thẳng chắc chắn sẽ leo thang. Tổng trữ lượng cát sỏi xây dựng được cấp phép hiện còn hơn 691 triệu mét khối. Công suất khai thác khoảng 62 triệu mét khối, trong khi nhu cầu lên đến 130 triệu mỗi năm.

“Nguồn cung hợp pháp chỉ đáp ứng được khoảng 40 – 50 %”, ông Phạm Văn Bắc, Vụ trưởng Vụ Vật liệu Bộ Xây dựng nói. Số thiếu hụt phải trông vào một trong hai thứ: cát lậu, hoặc vật liệu thay thế.

Vật liệu thay thế gồm cát nhân tạo hoặc tro xỉ của một số nhà máy gang thép đã gia công có thể đạt được tiêu chuẩn thay thế cát xây dựng. Thay thế cát san lấp có tro xỉ nhiệt điện với lượng tồn đọng khoảng 30 triệu tấn.

Nhưng Việt Nam đang rất chậm trong việc tìm vật liệu và công nghệ thay thế. “Có địa phương mới ra tiêu chuẩn về vật liệu thay thế cách đây vài tháng”, ông Bắc nói. Mọi con đường đều dẫn về giải pháp đơn giản nhất: những sà lan của cát tặc.

“Các quốc gia cảm thấy quá đắt đỏ để điều chỉnh và hành pháp (trong vấn đề hút cát lậu)”, tổ chức Hòa Bình Xanh nhận định.

Đoạn đê của xã chạy qua nhà mới kè năm ngoái, năm nay đã lở một phần ba, bà Thảo không biết khi nào đến lượt ngôi nhà của mình. Nỗi ám ảnh ấy đến hàng đêm, ngay cả trong giấc mơ.

Con gái bà, chị Thơm đưa hai đứa con từ Cẩm Đình về Sen Chiểu đi tập bơi ngày đầu hè. Cái ao thả cá của ông bác họ trở thành bể bơi của lũ trẻ ven đô.

Thế hệ Thơm học bơi trên sông. Bãi sông trở thành bể tắm của cả làng mỗi mùa hè. Cái bãi ấy giờ ném hòn sỏi không thấy sủi tăm, không ai dám cho trẻ con xuống nữa. Mẹ chị thi thoảng cầm cái ống nhòm – kỷ vật của bố ngày đi chiến trường về. Bà đứng ở chân đê, nhòm xa nhòm gần xem những chiếc tàu đang hút cát ở đâu. Nhòm rồi để đó, chẳng để làm gì.

Dòng nước đã ngoạm dần những bãi bồi của Bắc Sơn, Cựu Đình, nhiều ngôi làng ven sông. Thơm cũng không biết đến khi nào thì ngôi nhà lẫn mảnh vườn của mình theo đất mà trôi xuống sông.

Chị nghĩ, “Chắc chúng nó cứ hút cho đến khi nào lở nhà, trôi đập, vỡ đê, nước tràn xuống tận Trung ương thì các bác mới về mà dẹp dứt điểm được”.

Ảnh: nguồn Internet.

Nội dung: Hoàng Phương

 

Cùng chuyên mục